Các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS tại tỉnh Lâm Đồng In trang
10/08/2023 10:05 SA

Trong thời gian qua, với tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của người dân, trong đó có sự nỗ lực, vượt khó vươn lên của đồng bào DTTS đã tạo tiền đề đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng trên địa bàn toàn tỉnh. Đặc biệt từ năm 2017 cho đến nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành nhiều Nghị quyết để phát triển nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS: Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 18/4/2017 về “đào tạo, phát triển và nâng cao nguồn nhân lực tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2030”; Nghị quyết số 14-NQ/TU, ngày 08/10/2018 “Về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018-2025, định hướng đến năm 2030”; Nghị quyết số 16/NQ/TU ngày 03/6/2022 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2022 - 2030; ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 25/7/2022 về đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Lâm Đồng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. UBND tỉnh ban hành Quyết định 1920/QĐ-UBND ngày 21/10/2022 về phê duyệt kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2022 - 2025… Đây là hệ thống văn bản chỉ đạo xuyên suốt, sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị đối với công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh trong thời gian qua.

Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh
Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh

Đến nay, kinh tế - xã hội vùng DTTS trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từng bước được đầu tư hoàn thiện, diện mạo của nông thôn vùng DTTS đã có nhiều khởi sắc, sản xuất nông nghiệp ổn định và phát triển, công tác giáo dục - đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội được chú trọng. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS không ngừng được cải thiện, nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm nhanh; kết cấu hạ tầng nông thôn, vùng đồng bào DTTS được đầu tư, cơ bản hoàn thiện. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện đồng bộ, rộng khắp, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS không ngừng được cải thiện, nâng cao.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) cơ bản đảm bảo số lượng, đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định. Nhiều chỉ tiêu vượt so với Nghị quyết 09-NQ/TU đề ra (như chỉ tiêu: Tỷ lệ CBCC cấp tỉnh, cấp huyện có trình độ sau đại học và CBCC cấp xã có trình độ đại học; tỷ lệ CBCCVC được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm,...). Lực lượng lao động tăng cả về số lượng và chất lượng, lao động làm việc trong các ngành kinh tế đạt khoảng 794.520 lao động, tăng 78.520 lao động so với năm 2015. Tỷ lệ lao động trong các ngành, lĩnh vực đã qua đào tạo đạt 70%; tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi đạt dưới 1,2%.

Công trình sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao của Trường PTDT nội trú THPT Lâm Đồng do Bộ Tư lệnh Quân khu 7 hỗ trợ năm 2022
Công trình sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao của Trường PTDT nội trú THPT Lâm Đồng do Bộ Tư lệnh Quân khu 7 hỗ trợ năm 2022

Tuy nhiên, nhìn chung nguồn nhân lực của tỉnh nói chung và nguồn nhân lực trong vùng đồng bào DTTS vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế. Trình độ, năng lực một bộ phận CBCCVC ở vùng đồng bào DTTS chưa đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới. Năng suất, chất lượng lao động trong đồng bào DTTS còn thấp, cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm; lao động, việc làm và dạy nghề còn nhiều bất cập, đào tạo chưa gắn với nhu cầu sử dụng, có những ngành đào tạo dư thừa, sinh viên ra trường không tìm được việc làm; bên cạnh đó còn có những ngành, lĩnh vực thiếu hoặc không tuyển đủ lao động (công nghệ thông tin, xây dựng, bác sĩ,...) dẫn đến một lượng lao động là đồng bào DTTS làm việc không theo đúng ngành nghề, chuyên môn được đào tạo hoặc không có việc làm gây lãng phí nguồn lực. Cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao trong vùng đồng bào DTTS còn bất cập.

Nguyên nhân:

- Xuất phát điểm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp so với bình quân chung của cả tỉnh. Một bộ phận đồng bào DTTS còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước. Ý thức vươn lên trong học tập, lao động, sản xuất và chăm lo cuộc sống gia đình chưa được khai thác triệt để.

- Bên cạnh đó, nhận thức của một số địa phương, đơn vị về phát triển nguồn nhân lực trong vùng DTTS chưa được chú trọng đúng mức; chất lượng nguồn nhân lực trong vùng đồng bào DTTS còn nhiều hạn chế, chưa hội tủ đủ các yếu tố và nguồn lực để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ là đồng bào DTTS tham gia vào cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đang có xu hướng giảm, chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới. công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào DTTS vẫn còn những hạn chế nhất định; nội dung, hình thức, phương pháp, kỹ năng, phương tiện tuyên truyền cho tới kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới, tăng cường công tác tuyên truyền các chính sách dân tộc về đào tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS chưa đáp ứng nhu cầu.

- Đồng bào DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và chưa có sự đảm bảo về an sinh xã hội. Phần lớn lao động người DTTS có trình độ chuyên môn kỹ thuật, qua đào tạo thấp; có những bất lợi về trình độ chuyên môn, ngôn ngữ, sự phân công lao động trong gia đình, phong tục, tập quán. Hầu hết họ tham gia vào những công việc giản đơn, không đòi hỏi tay nghề chuyên môn cao; tính chất công việc không mang tính bền vững. Chương trình và nội dung đào tạo nghề và giải quyết việc làm chậm đổi mới để bắt kịp với yêu cầu của thị trường lao động. Mặt khác, các cơ sở đào tạo nghề chưa chủ động gắn kết giữa đào tạo với giải quyết việc làm, chưa kết nối được nhu cầu tuyển dụng trong doanh nghiệp. Công tác giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập, đào tạo chưa gắn với nhu cầu sử dụng. Tình trạng sinh viên người DTTS đã tốt nghiệp các trường đại học, trung cấp, cao đẳng không tìm được việc làm, gây khó khăn cho nhiều gia đình mà còn gây lãng phí nguồn nhân lực của địa phương. Cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao đối với vùng đồng bào DTTS gặp nhiều khó khăn. Thực tiễn này cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực thấp chính là rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội thảo khoa học Thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS tại tỉnh Lâm Đồng
Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội thảo khoa học Thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS tại tỉnh Lâm Đồng

Từ các nguyên nhân nêu trên, thì phát triển nguồn nhân lực trong vùng đồng bào DTTS là một nội dung chiến lược, hết sức quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng từ nay đến năm 2030. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS ở địa bàn tỉnh Lâm Đồng cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào DTTS; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 03/6/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2022 - 2030; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nghị quyết đại hội Đảng các cấp và các nội dung liên quan đến công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.

Coi trọng nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong toàn tỉnh nói chung và đồng bào DTTS nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên và có tính chiến lược lâu dài; là một trong bốn đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Phát triển nguồn nhân lực ở vùng đồng bào DTTS phải dựa trên nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo hài hòa về cơ cấu và cân đối nhân lực theo ngành, lĩnh vực của vùng đồng bào DTTS. Tập trung nâng cao, phát triển toàn diện nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh về thể lực, trí lực, tác phong, kỷ luật lao động, kỹ năng nghề nghiệp; cơ cấu lao động hợp lý, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ giữa các dân tộc, các vùng miền, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu lao động hiện tại và tương lai; xây dựng đội ngũ trí thức, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số và lao động trực tiếp có chất lượng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, bảo đảm quốc phòng an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Hai là: lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả  các chương trình, dự án, chính sách đang triển khai ở vùng đồng bào DTTS; trọng tâm là Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về “Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”. Trong đó, chú trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào DTTS. Tạo mọi điều kiện để đồng bào các DTTS được tiếp cận với với các chính sách về dân tộc và công tác dân tộc, góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa.

Ba là, chú trọng các chính sách về giáo dục đào tạo, đào tạo nghề, tạo việc làm; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ vào đối tượng cụ thể là người DTTS; đào tạo phải theo địa chỉ, đào tạo gắn với việc sử dụng lao động, đồng thời gắn kết các cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo nghề. Tiến hành rà soát, lựa chọn ngành mũi nhọn để tập trung ưu tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp đặc thù của vùng đồng bào DTTS và nhu cầu phát triển của địa phương, đơn vị. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông bán trú; lồng ghép nhiều hơn chương trình dạy nghề, hướng nghiệp với chương trình dạy nghề ở trung học phổ thông đối với học sinh DTTS. Nhân rộng, phát triển thêm các trường bán trú; phát triển giáo dục mầm non trong vùng DTTS; tổ chức dạy tiếng phổ thông ngay từ các lớp mầm non, trường mẫu giáo. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, phát triển các dịch vụ y tế, tăng cường cán bộ y tế về công tác ở vùng đồng bào DTTS. Tổ chức nghiên cứu bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ y, bác sỹ đã cử tuyển sau khi ra trường. Tăng cường các hoạt động bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc gắn với phát triển du lịch, dịch vụ và xây dựng đời sống mới. Khuyến khích các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy nghề truyền thống cho thế hệ trẻ; gìn giữ và phát huy những sản phẩm văn hóa độc đáo, hấp dẫn, hình thành các làng nghề truyền thống, các sản phẩm du lịch đặc trưng góp phần phát triển các loại hình văn hóa - du lịch.

Bốn là, bổ sung, rà soát việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Có chính sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với người DTTS, nhất là nhóm DTTS rất ít người, nhóm DTTS còn nhiều khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức là người đồng bào DTTS để xây dựng đội ngũ cán bộ toàn diện, đồng bộ, có chất lượng, đảm bảo tính kế thừa và liên tục trong đội ngũ cán bộ vùng đồng bào DTTS, làm tiền để cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị.

Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân vận, vận động tuyên truyền chính sách dân tộc trong vùng đồng bào DTTS. Tập trung tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước và của tỉnh. Lấy mục tiêu nâng cao thu nhập, đời sống của đồng bào DTTS là thước đo hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Phát huy nội lực tại chỗ, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động nhằm hạn chế tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của dân tộc Việt Nam nói chung và đồng bào DTTS nói riêng.

Sáu là, xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội vùng đồng bào DTTS đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Quan tâm bồi dưỡng, bố trí người có uy tín vào tổ chức chính trị - xã hội, HĐND, MTTQ các cấp… Phân công, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, hiểu biết về phong tục tập quán, về tín ngưỡng, tôn giáo, hiểu tiếng nói của đồng bào, được đồng bào tin cậy đối với các hoạt động vận động nhân dân vùng đồng bào DTTS. Khơi dậy tính chủ động, tự chủ trong việc tạo sinh kế cho bản thân và gia đình; giúp đồng bào nỗ lực vươn lên, thay đổi cách nghĩ, cách làm, biết cách làm ăn, tích lũy để cải thiện cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn, đủ đầy hơn.

Bảy là, tiếp tục phát huy vai trò và đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong vùng đồng bào DTTS. Tập trung hướng các hoạt động về cơ sở, bám vào địa bàn dân cư; thường xuyên tổ chức việc tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận động, tập hợp nhân dân, đoàn viên, hội viên trong vùng đồng bào DTTS phù hợp, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả.

Chú trọng xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên là đồng bào DTTS ở cơ sở; kết hợp tốt các hình thức tuyên truyền, từ trực tiếp đến gián tiếp, nhất là thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cho lực lượng tham gia làm công tác tuyên truyền thực hiện các chính sách về công tác dân tộc, nhất là đội ngũ cán bộ thôn, những người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức vận động nhân dân trong vùng đồng bào DTTS đổi mới cách tiếp cận, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền vận động, giải thích, thuyết phục, cổ vũ để tạo sức lan tỏa, phát huy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường và truyền thống tốt đẹp vốn có của đồng bào DTTS trong phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Thường xuyên tổ chức các hội nghị, tọa đàm, gặp mặt, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của đại diện các tầng lớp nhân dân trong vùng đồng bào DTTS trên địa bàn toàn tỉnh để thông tin về những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong vùng đồng bào DTTS là một quá trình lâu dài và có nhiều khó khăn, thách thức. Song, đây là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu cần phải tập trung thực hiện, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho vùng đồng bào DTTS phát triển một cách bền vững. Để làm được điều đó, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp, với sự nỗ lực của mọi cấp, mọi ngành, nhất là sự phấn đấu tự vươn lên của đồng bào DTTS trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới.

          Huy Tuấn

 

Lượt xem: 606
Liên quan